Nấm linh chi đỏ Hàn Quốc giá 500 nghìn/thang
Vua minh mạng có 3 bài thuốc ngâm rượu:
Giá bán 400.000 VND/thang
Giá thị trường: 1.000.000 VND/Thang
Nhà thuốc đông y Nhân Tâm
Tên thuốc: Bài thuốc ngâm rượu minh mạng thang
Địa chỉ: Số nhà 133 ngõ 106 Hoàng Ngân – Trung Hòa – Cầu Giấy – Hà Nội
Điện thoại: 0978996997 gặp Anh Định
Toa thuốc này truyền tụng từ lâu ở Huế, được đồn là do vài vị ngự y
chép được. Trong sách Nguyễn triều cố sự ; Huyền thoại về Danh lam xứ
Huế ( 1996), tác giả Bửu Kế chép ra hai bài thuốc vua Minh Mạng như sau
theo tài liệu của Lương Y Tuệ Tâm:
I. Nhất dạ ngũ giao
Thành phần:
1- Nhục thung dung 60g
2- Táo nhân 40g
3- Xuyên Qui 80g
4- Cốt toái bổ 40g
5- Cam cúc hoa 60g
6- Xuyên ngưu tất 40g
7- Nhị Hồng sâm 40g
8- Chích kỳ 40g
9- Sanh địa 60g
10 -Thạch hộc 60g
11- Xuyên khung 60g
12- Xuyên tục đoạn 40g
13- Xuyên Đỗ trọng 40g
14- Quảng bì 40g
15- Cam Kỷ tử 80g
16- Đảng sâm 50g
17- Thục địa 100g
18 – Đan sâm 60 g
19- Đại táo 100 g
(Toa này có người nói là „Nhất dạ ngũ giao sinh lục tử“ nghĩa là có một lần làm thụ thai… song sinh!!)
Cách ngâm:
Đường phèn để riêng, 19 vị thuốc trên đem ngâm với 5 lít rượu nếp
ngon trong 5 ngày đêm. ngày thứ sáu, nấu nửa lít nước sôi với 300 g
đường phèn cho tan ra, để nguội, rồi đổ vô thẩu, trộn đều đến ngày thứ
10 thì đem ra dùng. Ngày 3 lần sáng, trưa , tối, mỗi lần 1 ly trà. Dùng
liên tục.
II. Nhất dạ lục giao
Thành phần:
1-Thục địa 100g
2- Đào nhân 50g
3-Sa sâm 100g
4- Bạch truật 50g
5 Vân qui 50g
6- Phòng phong 50g
7- Bạch thược 50g
8- Trần bì 50 g
9-Xuyên khung 50g
10- Cam thảo 50g
11- Thục linh 50g
12- Nhục thung dung 50g
13- Tần giao 40 g
14-Tục đoạn 40 g
15- Mộc qua 40 g
16- Kỷ tử 100 g
17-Thường truật 4g
18-Độc hoạt 40g
19- Đỗ trọng 40g
20- Đại hồi 20g
21- Nhục quế 20g
22- Cát tâm sâm 50g
23- Cúc hoa 60g
24- Đại táo 100 g
Cách ngâm:
24 vị thuốc trên ngâm với 5 lít rượu tốt trong vòng 7 ngày. Lấy 150 g
đường phèn nấu với một xị nước sôi cho tan, để nguội rồi đổ vô keo rượu
thuốc, trộn đều, đến ngày thứ 10 đem dùng dần. Ngày 3 lần, mỗi lần 1 ly
nhỏ, sáng, trưa , chiều trước bữa ăn. Bã thuốc còn lại ngâm nước hai
với 3 lít rượu ngon- một tháng sau dùng tiếp.
Chủ trị:
Cả hai bài trên có tác dụng đại bổ thận, bồi bổ thần kinh, gia tăng
khí huyết, tăng cường sinh lực, mạnh gân cốt, bán thân bất toại, dương
sự kém, tăng tuổi thọ.
Vài nhận xét của người viết
Tôi mạn phép có vài nhận xét sau:
a- Trong hai bài thuốc, về cân lượng người ta dùng đơn vị Gramme (g).
Ngày xưa ở Trung quốc dùng cân (chin), lượng ( liang), phân (fen).
Nhưng ngay bây giờ, ở Trung quốc, người ta dùng những hệ thống khác nhau
về cân lượng như 16 lượng, 12 lượng, 10 lượng; thậm chí ở các vùng quê
hẻo lánh, người dân dùng hệ thống. 18 lượng, 20 lượng và 24 lượng.
Những ấn định về đo lường trong nhiều triều đại đã làm cho vấn đề cực
kỳ phức tạp. Kể từ năm 1979, miền Hoa lục đã chuyển theo hệ thống thập
phân (metric system) thay vì là hệ thống cân lượng, nên trong nhiều sách
thuốc in tại Hoa Lục , hệ thống trọng lượng được thống nhất như sau, để
dễ bề tính toán:
1 lượng = 30 g ( hiện nay chính xác hơn là 31 .25 g)
1 tiền = 3g
1 phân = 0.3g
Vậy về phân lượng trong 2 toa thuốc Minh Mạng thang trên, ta không rõ
lương y Việt Nam đã dựa vào toa nguyên gốc mà đổi ra gờ ram hay phỏng
chừng đổi theo cách thực dụng mới cho tiện việc cân khi mua thuốc.
b- Trong toa Nhất dạ ngũ giao, những vị thuốc bắt buộc phải kén chọn
theo nguồn gốc sản xuất, vì các tên thuốc có kèm tên vùng thổ sản như Tứ
Xuyên, Cam túc, vùng Lưỡng Quảng, ví dụ chẳng hạn như phải đòi hỏi
thuốc từ Tứ Xuyên như Đương Qui, Ngưu Tất, Tục đoạn, Đỗ trọng, Xuyên
khung.
Trong khi trong toa Nhất nhật lục giao, thì chỉ có Vân Qui và Xuyên
Khung là gốc Vân Nam và Tứ Xuyên, còn những vị Tục đoạn, Đỗ trọng, Kỷ tử
thì không nói rõ từ ở đâu
c- Điều này rất quan trọng là phân lượng những thành phần kê ra trong
một toa thuốc Bắc phải dựa trên tình trạng của mỗi bệnh nhân như thể
chất yếu hay khỏe, bịnh trạng nặng hay nhẹ, bệnh tình mới hay lâu.
Thành ra hai bài thuốc kê trên không phải là loại “one size fits
all”. Do đó, với tư cách người biên khảo vô tư nhưng rất thận trọng về ý
thức trách nhiệm, tôi khuyến cáo bạn đọc không thể đơn phương quyết
định áp dụng sự tự điều trị cho cá nhân mình mà không tham khảo những vị
lương y có thẩm quyền chuyên nghiệp, nhất là những nữ bệnh nhân mang
thai, hay những người có chứng huyết áp cao hay những rối loạn bệnh lý
hiểm nghèo khác.
Một vị thuốc tuy có vẻ hiền lành nào cũng có thể có những phó tác-
dụng bất ngờ nhất là thuốc Bắc chưa được kiểm nghiệm như thuốc hiện đại
trước khi bán ở thị trường.
d- Một điều thứ hai tôi muốn nêu ra về công hiệu của những ngự tửu.
Trường hợp của Minh Mạng thang với những tên “Nhất dạ ngũ giao” hay
“Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” có tính cách khoa trương huyền thoại
chăng?
Ta hãy thử duyệt lại số con cái của vua chúa nhà Nguyễn Chín đời chúa là:
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng ( 1525 – 1613) có 12 con: 10 trai và 2 gái
Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên ( 1563- 1635) có 15 con: 11 trai và 4 gái
Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan ( 1601 – 1648) có 4 con: 3 trai và 1 gái
Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần ( 1620 – 1687) có 9 con: 6 trai và 3 gái.
Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái ( 1650 – 1691) có 10 con: 5 trai và 5 gái
Chúa Minh vương (Quốc chúa) Nguyễn Phúc Chu* ( 1675 – 1725) có 42 con: 38 trai và 4 gái
Chúa Ninh vương Nguyễn Phúc Thụ ( 1697 – 1738) có 9 con: 3 trai và 6 gái
Chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát ( 1714 – 1765) có 30 con: 18 trai và 12 gái
Chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần ( 1753 – 1777) có một gái
[* Chúa Minh vương (Quốc chúa ), theo nhiều sử sách có đến 146 con!]
Nhưng theo Richard Orband trong Les tombeaux des Nguyễn( 1914) và Nguyễn Phúc tộc thế phả ( 1995) thì ghi là 42 con
Mười ba đời vua là:
Gia long ( 1762 – 1819) có 31 con :13 trai và 18 gái
Minh Mạng (1791 – 1840) có 142 con: 78 trai và 64 gái
Thiệu trị ( 1807 – 1847) có 64 con: 29 trai và 35 gái
Tự Đức ( 1829 – 1883) không có con tuy nhiều vợ
Dục Đức ( 1853- 1883) có 19 con: 11 trai và 8 con gái chết vì bị giam đói
Hiệp Hòa ( 1847 – 1883) có 17 con: 11 trai và 6 gái chết vì bị ép uống thuốc độc
Kiến Phúc ( 1869 – 1884) chưa có vợ con , chết bí mật
Hàm Nghi ( 1871- 1943) một vợ, có 3 con: 1 trai và 2 gái
Đồng Khánh ( 1864 – 1889) có 5 vợ, 10 con: 6 trai và 4 gái
Thành Thái ( 1878 – 1954) nhiều vợ, có 45 con: 19 trai và 26 gái**
Duy Tân ( 1900 – 1945) có 2 đời vợ , có 3 trai và 2 gái
Khải Định ( 1885 – 1925) có 1 trai
Bảo Đại (1913 – 1997) có 5 con: 2 trai và 3 gái
[** Riêng Vua Thành Thái là một người phát dục rất sớm. Số con của
ông còn rơi rớt rất nhiều mà thế phả nhà Nguyễn chưa kiểm tra được.
Cung tần chưa đủ cho ngài gần gũi mà còn muốn vi hành ra ngoài nên
mới có câu: Kim luông con gái mỹ miều, Trẫm thương, trẫm nhớ trẫm liều,
trẫm đi!]
Duyệt qua danh sách trên, ta thấy có hai đỉnh cao về con số đông con:
_ Đỉnh cao thứ nhất trong đời các chúa với Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu
và Võ vương Nguyễn Phúc Khoát ứng vào giai đoạn mà Chúa Nguyễn ở Nam hà
tuyên bố xác định vương quyền độc lập chống lại vua Lê chúa Trịnh Bắc hà
bằng sự dùng vương ấn và lập sẵn kinh đô ở Thuận Hóa.
_ Đỉnh cao thứ hai trong đời các vua với vua Minh Mạng ứng với giai
đoạn tuyên xưng đế quyền tuyệt đối với sự ban bố bài Đế Hệ thi 20 chữ
trong tham vọng con cháu của ông sẽ làm vua trong 20 đời nữa.
Chính ý niệm xác định Vương quyền và Đế quyền phải chăng tạo ra nhu
cầu sinh sản nhiều tử tức hậu duệ. Và “bộ máy đẻ” của nhà Nguyễn là hệ
thống cung tần mỹ nữ.
Đời Võ vương, vợ lớn nhỏ của chúa không gọi là Chánh hay Thứ phu nhân
như bá tính mà đổi ra gọi vợ cả là Tả hành lang và vợ thứ là Hữu hành
lang, con cái đẻ ra sợ chuyện ma quỉ bắt ( nạn hữu sanh vô dưỡng ) nên
Chúa mới đặt ra tục gọi các con trai là Mệ, Mụ.
Trong cung cấm nhà Nguyễn, có chín bậc gọi các bà vợ vua từ cao đến
thấp gọi là Cửu giai. Vua nhà Nguyễn không phong vợ lớn là Hoàng Hậu
(trừ vua Bảo Đại sau này) vì sợ nạn quốc thích chuyên quyền như các
triều Lý, Trần , tước hiệu Hoàng Hậu chỉ phong sau khi chết.
Cửu giai là:
Nhất giai Phi
Nhị giai Phi
Tam giai Tân
Tứ giai Tân
Ngũ giai Tiếp Dư
Lục giai Tiếp Dư
Thất giai Quý Nhân
Bát giai Mỹ Nhân
Cửu giai Tài Nhân
và cuối cùng là Tài Nhân vị nhập giai ( nghĩa là chưa vô ngạch mà chuẩn bị thôi, như chức Chuẩn Úy của quân đội)
Trong thế phả Nguyễn Phúc tộc, tôi thấy một bà Cung Nga có lẽ là cung nữ chưa vô ngạch Cửu giai!
Chính vì hệ thống phi tần mỹ nữ đã là cho những ông ngự y phải tìm
những thang thuốc bổ thận cho vua chúa và những toa thuốc dưỡng thai cho
các vợ vua khi mang bầu, như thế làm gì không đông con.
Thức ăn ngự thiện đương nhiên gồm những thứ bổ béo mà bá tính cung
tiến .Vua Minh Mạng chỉ sống đến 50 tuổi vì nghe đâu chết vì té ngựa,
thế mà đã có 142 con, nếu vua thọ thêm 20 năm nữa, con cái trực hệ còn
đông đến đâu. Hệ của Minh Mạng là hệ nhì chánh ( hệ nhứt chánh là hệ
hoàng tử Cảnh), là hệ đông nhất gồm 56 phòng và phái nam đươc 1800
người.
Theo tôi những cái tên Nhất dạ Ngũ giao hay Lục giao của Minh Mạng
thang là những cái tên đời sau bịa ra cho thần kỳ, chứ mỗi khi một cung
phi nào được vua vời tới long sàng thì tên tuổi và ngày tháng ấy đều
được ghi chép cẩn thận để sau này còn chẩn đoán thai kỳ và xác nhận phụ
hệ. Những chuyện về:
Cái đêm hôm ấy đêm gì.
Bóng dương trùng bóng trà mi chập chùng
là chuyện thâm cung bí sử, ai mà rõ “ ngũ giao” hay “ lục giao”.
Trong đống văn khố chứa trong Tàng thơ lâu , giả thử còn lưu lại những y
án hay phương dược của các ngự y dâng lên vua, đâu là tài liệu xác nhận
rằng vào một đêm nào đó có 5 bà phi trong bụng tiếp nhận “ long chủng”
qua lần ân ái với vua và tên những hoàng nam hay hoàng nữ đó là ai?
Dựa vào kiến thức y học, câu chuyện “lục giao sanh ngũ tử “ có lẽ là
ngoa ngôn hay phóng đại. Chỉ ở trong thần thoại Hy lạp, mới có thần
Hercule trong một đêm gần … 50 cô gái đã làm thụ thai 49 cô. Dẫu sao,
xét về số con của vua Minh Mạng thì hậu thế phải công nhận ông thuộc vào
loại có khả năng tính dục tuyệt luân.
Tính theo mỗi lần giao cấu chỉ bắn tinh khí ra khoảng 2 phân khối
rưỡi đến 3 là cùng sau nhiều ngày kiêng giao cấu, mà muốn làm thụ thai,
mỗi phân khối tinh khối phải chứa 100 triệu tinh trùng và số tinh trùng
quái dị phải dưới 20 %.
Khối lượng và sự đậm đặc của tinh khí thường giảm xuống mau chóng sau
nhiều lần giao cấu liên tục. Như vậy trong một đêm 5 lần 6 lượt tính
giao thường không phải sinh con mà sinh ra …. bắn súng nước hay bắn
khói!
Theo sử sách, hằng đêm, vua thức khuya để coi chương sớ từ các phiên
trấn gửi về đến canh ba ( 11 giờ khuya) mới đi ngủ. Hoạt động chăn gối
về đêm hăng như thế mà ban ngày vẫn thiết triều, cưỡi ngựa không biết
mệt chứng tỏ Minh Mạng là một người có một “thể chất tiên thiên “ bẩm
sinh cường tráng.
Những toa thuốc mà vua dùng chỉ là trợ lực cho đường sinh lý chứ
không phải là chủ trị quyết định. Xem trường hợp vua Tự Đức (1847- 1883)
thể chất tiên thiên bất túc và lúc mới lớn bị đậu mùa, dù là vua có
nhiều vợ và được các ngự y chữa trị vẫn không có con.
Nhìn vào thành phần những món thuốc trong hai toa Minh Mạng thang nói
trên, tôi thấy toàn là những vị bổ dược mà tiệm thuốc bắc nào cũng có
và hiệu lực của chúng theo y lý được coi là tư âm bổ dương, tăng cường
tinh khí, nâng đỡ thể trạng chứ không phải là những thức khích hứng nhất
thời làm cương cử ngọc hành hay những vật liệu chế từng những tạng phủ
hay bộ phận của những thú vật nổi tiếng mạnh về sinh lý.
Thành ra Minh Mạng thang là một loại bổ dược chống mệt mỏi tổng quát,
chứ không giống như những viên thuốc hứng dục ( aphrodisiac) như viên
Okasa dạo nào của Pháp chứa Testostérone và Yohimbine, Cantharidine hay
những viên Viagra hiện nay chỉ có tác dụng cục bộ làm cương cử ngọc
hành.
Nhiều y sĩ cho rằng sự mệt mỏi thường là nguyên nhân làm giảm hứng
thú khi ân ái. Vua Minh Mạng vốn là một người có thực lực tính dục quán
chúng do bẩm sinh nên vấn đề dùng thuốc bổ là một sự trợ lực. Nếu phàm
nhân tục tử vốn liếng chẳng bao nhiêu không biết tự lượng sức mình, mỏi
gối chồn chân mà cứ dùng thuốc khích hứng để tiếp tục trèo thì quả là
tai hại!
Nhận định về công hiệu của Minh Mạng thang.
Vấn đề này cần một sự khảo sát và phân tích thâm cứu dựa trên những
dữ kiện khoa học mà hiện nay chưa có. Tôi nghĩ rằng một ý kiến có thẩm
quyền nhất là ý kiến của bác sĩ Nhật Akira Ishihara. Ông đã cọng tác với
Howard S. Levy là đồng tác giả cuốn The Tao of Sex.
Cuốn sách này rất hay vì dựa vào nhiều tài liệu hiếm quí về tính dục
học cũng như y dược của Trung Hoa và Nhật bản. Y dược Á Đông theo nguyên
lý Âm Dương Ngũ hành và được chế biến từ những nguyên liệu từ thiên
nhiên mà hiện nay chưa có một sự phân chất thí nghiệm qui mô. Dược liệu
Trung Y qua hơn 5 ngàn năm lịch sử từng chứng tỏ công hiệu trên nhiều
phương diện.
Ví dụ như Nhung gạt hươu non chứa nhiều kích thích tố , dùng trích
tinh để thí nghiệm trên chuột thì thấy chuột tăng cường về sinh lý rõ
ràng. Nhục thung dung là một loại nấm chứa nhiều Manganese thường có
trong nhiều thuốc khích dục. Thành ra không phải y dược Á đông không có
hiệu nghiệm, nhưng hiệu nghiệm này còn rất ẩn áo hầu như có tính chất
huyền thoại, phải theo kinh nghiệm lâu đời (empirical) của cổ nhân mà
dùng lâu ngày mới thấy. Một yếu tố đáng kể là thể tạng của từng bệnh
nhân đã đáp ứng ra sao với sự trị liệu nên thuốc dùng cho người này thì
tốt mà dùng cho kẻ khác thì không. Vấn đề tâm lý của người dùng thuốc(
linh tại ngã, bất linh tại ngã) cũng là một yếu tố quyết định.
Tôi tự xét, không học gì về Đông Y mà chỉ là con mọt sách, ghi chép
lượm lặt để viết lách, nên kính mong sự chỉ giáo của các bậc cao minh.
Tôi còn nhớ trước 1975 có đọc quyển Vạn thị Phụ Nhân khoa do ông
Nguyễn văn Tỷ chủ nhà thuốc Hồi Xuân đường Nguyễn thiện Thuật, Bàn cờ
Sài gòn. Trong sách có một đoạn bàn về các toa thuốc bổ tính dục và bí
quyết sinh quí tử mà tôi viết lại theo trí nhớ:
Đàn ông muốn sanh quí tử phải đạt đủ ba điều kiện trên ba tiêu chuẩn
gọi là Tam chí ( Can chí, Tâm chí, Thận chí). Can tức là gan. Can chủ về
mộc cân tức là gân. Gân khỏe ( Can chí) thì gân mới đủ sức cương cử mà
hành sự; Tâm tức là tim, chủ về huyết hỏa hay năng lượng. Tim tốt ( Tâm
chí) thì trí não quân bình, năng lực phương cương, sức lực bề dai, tinh
trùng mới đủ sức bơi ngược giòng tử cung để thụ thai:
Thận tức là cơ quan tính dục gồm dịch hoàn và các hạch nội tiết nang
thượng thận, chủ về thủy, tức là tinh khí. Thận khỏe ( Thận chí) thì
tinh khí đặc, chứa nhiều tinh trùng nên dễ thụ thai.
Suy diễn như trên, ta thấy sự tính giao lý tưởng là một độ cương
dương vật đầy đủ, một trí óc quân bình, một nguồn sản xuất tinh khí dồi
dào về phẩm và lượng. Như thế, một người thận yếu, tinh khí loãng, cợ
thể bạc nhược, gân thịt bèo nhèo mà dùng thuốc khích hứng chẳng khác nào
quất roi thúc con ngựa còm ròm tiến bước trên con đường xa gập ghềnh.
Một toa thuốc bổ dương hoàn toàn không phải là một toa thuốc chỉ bổ
thận khích dục mà theo biện chứng của Đông Y phải là nhắm vào chủ đích
bổ dưỡng toàn thân, bằng cách bồi bổ ba nội tạng Can, Tâm, Thận. Tôi
nghĩ đây là một minh chứng về quan niệm khác nhau giữa Tây Y và Đông Y:
*Tây Y chủ trương đánh thẳng và mau vào ngọn nên hữu hiệu vào những trường hợp cấp tính
*Còn Đông Y đánh bền và lâu vào gốc bệnh ly, nên thích hợp cho các chứng kinh niên mạn tính.
Nhìn chung, dùng rượu thuốc là một tập quán, một đặc thù văn hóa của
dân Việt ta đã chịu ảnh hưởng của Trung Hoa qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên,
sống trong thời hiện đại, người ta phải có một thái độ suy luận thận
trọng trên thực tế khi phải dùng thuốc, ngay cả khi dùng thuốc bổ không
phải thuốc bổ nào cũng tốt cả như „ one size fits all“ như cái tên khoa
trương „ ngũ giao“, „ lục giao“… Một vị thuốc nào cũng vậy, bên cạnh
công năng trị liệu, còn có thể có nhiều “phó tác dung”.
Rượu làm khí huyết lưu thông (Tửu năng dẫn huyết) nhưng đối với những
người có chứng huyết áp cao và chứng thống phong ( gout) thì không nên
dùng. Tóm lại, rượu thuốc vẫn là rượu bổ nhưng nên dùng thận trọng.
Yhoccotruyen.vn