Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

Cách ngâm rượu minh mạng

Giá đơn thuốc minh mạng thang 400.000  VND/thang
Giá thị trường: 1.000.000 VND/kg
Nhà thuốc đông y Nhân Tâm
Tên thuốc: Bài thuốc ngâm rượu minh mạng thang
Địa chỉ: Số nhà 133 ngõ 106 Hoàng Ngân – Trung Hòa – Cầu Giấy – Hà Nội
Điện thoại: 0978996997 gặp Anh Định
 Trong đời sống riêng tư, Minh Mạng nổi tiếng là người có sức khoẻ cường tráng của đàn ông. Tương truyền, vua một đêm có thể "chiều" đến 5-6 cung tần...

Cho đến nay, không có tài liệu cho biết chân dung và thể lực của ông như thế nào, chỉ biết vua có nhiều vợ và rất đông các phi tần; có tới 142 người con, gồm 78 hoàng tử và 64 công chúa.

Bẩm sinh cường tráng

Sinh năm 1791, là con thứ 4 của vua Gia Long, năm 30 tuổi (1820), thái tử Nguyễn Phúc Đảm (thường gọi Thái tử Đảm) lên nối ngôi, lấy niên hiệu là Minh Mạng. Ông đã có những cải đổi lớn lao các định chế công quyền, hành chính, pháp luật, thuế khóa, đinh điền, tu soạn sử sách địa lý và lập các cơ sở dưỡng tế. Minh Mạng cũng đã cho thành lập Quốc tử quán, ấn định học hiệu và thi cử, cải đổi cơ cấu triều đình thành Nội các với Lục bộ và Cơ mật viện, đổi trấn thành tỉnh và chia vị trí đất nước thành 31 tỉnh.

Theo sử sách, vua không chỉ nổi tiếng ở tài thao lược, mà còn vang danh hậu thế nhờ có sức khoẻ hơn người. Vua Minh Mạng hoạt động chăn gối về đêm đều đặn nhưng hằng ngày vẫn thiết triều, cưỡi ngựa không biết mệt. Không chỉ có thế, vua thường thức đến tận canh ba để làm việc. Điều đó cho thấy vua Minh Mạng có một “thể chất tiên thiên" - cường tráng bẩm sinh. Chính sự khỏe mạnh do rèn luyện cơ thể đó đã góp phần không nhỏ vào sự vượng con của vị vua này.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, hoàng đế Minh Mạng có số lượng con nhiều nhất trong 13 đời vua Nguyễn. Vua có sức khoẻ phục vụ tam cung lục viện, một đêm có thể "chiều" đến 5-6 cung tần...

Tìm "thần dược" tráng dương

Có một giai thoại rằng, để vua Minh Mạng có "sức đàn ông" phi thường, các ngự y trong triều đã ngày đêm nghiên cứu, bào chế những bài thuốc có tính năng tráng dương bổ thận cho thiên tử dùng. Và nhờ "bồi bổ" Minh Mạng thang, gồm hai toa thuốc: Nhất dạ ngũ giao và Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử - được thầy thuốc căn cứ vào thể chất và sinh hoạt của vua để lập ra thang thuốc rượu, mà đấng quân vương nhà Nguyễn trở thành chiến binh dũng mãnh chốn phòng the.

Minh Mạng thang gồm những loại dược liệu gì? - Có bạch linh, bạch thược, cẩu kỷ tử, đại táo, đỗ trọng, đương quy, sa sâm, nhục quế, thục địa, phòng phong, huỳnh kỳ... và vô số thảo dược khác. Thang thuốc có tác dụng rất lớn trong việc tăng cường tinh khí, phục hồi khí huyết và tăng tuổi thọ. Vì thế, theo các nhà y học hiện đại, “phép thần thông” mà người ta đồn đại về Minh Mạng thang không hoàn toàn đúng 100%. Lục sử thấy rõ, vua Minh Mạng là người có thực lực tính dục bẩm sinh, hứng thú ân ái. Những toa thuốc vua dùng chỉ mang tính trợ lực, chứ không phải đóng vai trò chủ trì quyết định. Ngoài ra, có một bằng chứng đơn giản, nếu Minh Mạng có bài thuốc thần diệu như vậy thì tại sao vua Tự Đức (cháu nội) lại không áp dụng được mà vẫn bị bất lực, không con?

Tuy nhiên, hiện nay, huyền thoại bài thuốc "tăng cường sinh lý, như ý phòng the" của vua Minh Mạng lúc nào cũng thu hút những đấng mày râu bị mắc chứng bệnh hiếm muộn, đang yếu muốn mạnh, vốn mạnh càng muốn mạnh hơn…

I. Nhất dạ ngũ giao
Thành phần:
1- Nhục thung dung 60g
2- Táo nhân 40g
3- Xuyên Qui 80g
4- Cốt toái bổ 40g
5- Cam cúc hoa 60g
6- Xuyên ngưu tất 40g
7- Nhị Hồng sâm 20g
8- Chích kỳ 40g
9- Sanh địa 60g
10 -Thạch hộc 60g
11- Xuyên khung 60g
12- Xuyên tục đoạn 40g
13- Xuyên Đỗ trọng 40g
14- Quảng bì 40g
15- Cam Kỷ tử 80g
16- Đảng sâm 50g
17- Thục địa 100g
18 - Đan sâm 60 g
19- Đại táo 100 g
(Toa này có người nói là „Nhất dạ ngũ giao sinh lục tử“ nghĩa là có một lần làm thụ thai... song sinh!!)
Cách ngâm:
Đường phèn để riêng, 19 vị thuốc trên đem ngâm với 5 lít rượu nếp ngon trong 5 ngày đêm. ngày thứ sáu, nấu nửa lít nước sôi với 300 g đường phèn cho tan ra, để nguội, rồi đổ vô thẩu, trộn đều đến ngày thứ 10 thì đem ra dùng. Ngày 3 lần sáng, trưa , tối, mỗi lần 1 ly trà. Dùng liên tục.
II. Nhất dạ lục giao
Thành phần:
1-Thục địa 100g
2- Đào nhân 50g
3-Sa sâm 100g
4- Bạch truật 50g
5 Vân qui 50g
6- Phòng phong 50g
7- Bạch thược 50g
8- Trần bì 50 g
9-Xuyên khung 50g
10- Cam thảo 50g
11- Thục linh 50g
12- Nhục thung dung 50g
13- Tần giao 40 g
14-Tục đoạn 40 g
15- Mộc qua 40 g
16- Kỷ tử 100 g
17-Thường truật 4g
18-Độc hoạt 40g
19- Đỗ trọng 40g
20- Đại hồi 20g
21- Nhục quế 20g
22- Cát tâm sâm 50g
23- Cúc hoa 60g
24- Đại táo 100 g
Cách ngâm:
24 vị thuốc trên ngâm với 5 lít rượu tốt trong vòng 7 ngày. Lấy 150 g đường phèn nấu với một xị nước sôi cho tan, để nguội rồi đổ vô keo rượu thuốc, trộn đều, đến ngày thứ 10 đem dùng dần. Ngày 3 lần, mỗi lần 1 ly nhỏ, sáng, trưa , chiều trước bữa ăn. Bã thuốc còn lại ngâm nước hai với 3 lít rượu ngon- một tháng sau dùng tiếp.
Chủ trị:
Cả hai bài trên có tác dụng đại bổ thận, bồi bổ thần kinh, gia tăng khí huyết, tăng cường sinh lực, mạnh gân cốt, bán thân bất toại, dương sự kém, tăng tuổi thọ.
Vài nhận xét của người viết
Tôi mạn phép có vài nhận xét sau:
a- Trong hai bài thuốc, về cân lượng người ta dùng đơn vị Gramme (g). Ngày xưa ở Trung quốc dùng cân (chin), lượng ( liang), phân (fen). Nhưng ngay bây giờ, ở Trung quốc, người ta dùng những hệ thống khác nhau về cân lượng như 16 lượng, 12 lượng, 10 lượng; thậm chí ở các vùng quê hẻo lánh, người dân dùng hệ thống. 18 lượng, 20 lượng và 24 lượng.
Những ấn định về đo lường trong nhiều triều đại đã làm cho vấn đề cực kỳ phức tạp. Kể từ năm 1979, miền Hoa lục đã chuyển theo hệ thống thập phân (metric system) thay vì là hệ thống cân lượng, nên trong nhiều sách thuốc in tại Hoa Lục , hệ thống trọng lượng được thống nhất như sau, để dễ bề tính toán:
1 lượng = 30 g ( hiện nay chính xác hơn là 31 .25 g)
1 tiền = 3g
1 phân = 0.3g
Vậy về phân lượng trong 2 toa thuốc Minh Mạng thang trên, ta không rõ lương y Việt Nam đã dựa vào toa nguyên gốc mà đổi ra gờ ram hay phỏng chừng đổi theo cách thực dụng mới cho tiện việc cân khi mua thuốc.
b- Trong toa Nhất dạ ngũ giao, những vị thuốc bắt buộc phải kén chọn theo nguồn gốc sản xuất, vì các tên thuốc có kèm tên vùng thổ sản như Tứ Xuyên, Cam túc, vùng Lưỡng Quảng, ví dụ chẳng hạn như phải đòi hỏi thuốc từ Tứ Xuyên như Đương Qui, Ngưu Tất, Tục đoạn, Đỗ trọng, Xuyên khung.
Trong khi trong toa Nhất nhật lục giao, thì chỉ có Vân Qui và Xuyên Khung là gốc Vân Nam và Tứ Xuyên, còn những vị Tục đoạn, Đỗ trọng, Kỷ tử thì không nói rõ từ ở đâu
c- Điều này rất quan trọng là phân lượng những thành phần kê ra trong một toa thuốc Bắc phải dựa trên tình trạng của mỗi bệnh nhân như thể chất yếu hay khỏe, bịnh trạng nặng hay nhẹ, bệnh tình mới hay lâu.
Thành ra hai bài thuốc kê trên không phải là loại “one size fits all”. Do đó, với tư cách người biên khảo vô tư nhưng rất thận trọng về ý thức trách nhiệm, tôi khuyến cáo bạn đọc không thể đơn phương quyết định áp dụng sự tự điều trị cho cá nhân mình mà không tham khảo những vị lương y có thẩm quyền chuyên nghiệp, nhất là những nữ bệnh nhân mang thai, hay những người có chứng huyết áp cao hay những rối loạn bệnh lý hiểm nghèo khác.
Một vị thuốc tuy có vẻ hiền lành nào cũng có thể có những phó tác- dụng bất ngờ nhất là thuốc Bắc chưa được kiểm nghiệm như thuốc hiện đại trước khi bán ở thị trường.
d- Một điều thứ hai tôi muốn nêu ra về công hiệu của những ngự tửu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét